Chuyến bay từ Pháp tới Đông Dương từ ngày 19/2/1929 tới 26/2/1929 là chuyến bay thương mại đầu tiên giữa Pháp và các thuộc địa vùng viễn Đông. Nó được thực hiện bởi phi công Antoine Paillard, hoa tiêu Joseph Le Brix, nhân viên cơ khí Camille Jousse. Tuy không thành công nhưng mở ra một chương mới cho thập niên vàng lịch sử ngành hàng không Đông Dương giai đoạn 1930-1939 sau đó.
Thông tin chuyến bay
Giờ khởi hành: 1h21 sáng ngày 19/2/1929 (tính từ Istres)
Phi hành đoàn: phi công Antoine Paillard, hoa tiêu Joseph Le Brix, nhân viên cơ khí Camille Jousse
Quãng đường bay: 11.220 km
Hành trình: Istres | Tunis | Benghasi | Cairo | Basra | Agra | Karachi | Allahabad | Calcutta | Akyab | Yangon | Sài Gòn
Máy bay: Bernard 197 GR mã hiệu F-AIYI, một động cơ
PHI HÀNH ĐOÀN
Cả 3 nhân vật trong phi hành đoàn đều là những người giàu kinh nghiệm, Paillard trưởng thành từ trong thế chiến I; Le Brix cũng đã tích lũy được hơn 300 giờ bay trước đó; Jousse từng là thợ cơ khí trong hải quân, sau đó làm kỹ sư máy bay cho hãng Farman và Latécoère. Hành trình tới Đông Dương tập hợp được những người có máu mặt nhất ngành hàng không nước Pháp lúc bấy giờ.
Paillard | Phi công
Le Brix | Hoa tiêu
Jousse | Thợ máy
THÔNG SỐ MÁY BAY
Máy bay phi hành đoàn sử dụng là chiếc Bernard 197 GR do Pháp sản xuất, (GR viết tắt của chữ Grand Raid), số đăng ký F-AIYI. Đây là một phiên bản đặc biệt của dòng máy bay nổi tiếng 190T của Benard. Nó đặc biệt vì lần đầu tiên được trang bị một động cơ 450 mã lực do hãng Lorraine tài trợ. Trước đó các phiên bản 191 GR được trang bị động cơ Hispano 12 Lb lên đến 600 mã lực. Động cơ mới tuy yếu hơn nhưng nhẹ hơn nhiều nên được kỳ vọng là sẽ giúp máy bay bay nhanh hơn, xa hơn nhưng tiêu tốn nhiên liệu ít hơn. Tuy nhiên, không phải cái gì mới hơn cũng tốt hơn nên giữa đường động cơ bị trục trặc và F-AIYI không làm tròn sứ mạng của mình.
- Chiều dài: 12,58 m (41 ft 3 in)
- Sải cánh: 17,30 m (56 ft 9 in)
- Chiều cao: 3,59 m (11 ft 9 in)
- Diện tích cánh: 42,9 m 2 (462 ft 2)
- Trọng lượng rỗng: 1.956 kg (£ 4312)
- Tổng trọng lượng: 3.400 kg (£ 7496)
- Tốc độ tối đa: 216 km / h (134 mph)
- Tầm bay xa: 1.000 km (620 dặm)
- Tầm bay cao: 3.700 m (12.140 ft)
HÀNH TRÌNH
Chiếc máy bay được đặt tên “France-Indochine”. Hành trình đến Sài Gòn dự kiến qua các điểm: Istres | Tunis | Benghasi | Cairo | Basra | Agra | Karachi | Allahabad | Calcutta | Akyab | Yangon | Sài Gòn.
Ngày | Chặng | Quãng đường | Mô tả |
16/2/1929 | Orly – Istres | Vào ngày 16 tháng 2, sau chuyến bay thử nghiệm kéo dài 40 phút, Paillard và Le Brix rời Orly, căn cứ ở Paris lúc 12 giờ 40. Lúc 4h20 chiều, chiếc Bernard 197 GR màu xanh bạc đã đến Istres. | |
19/2/1929 | Istres – Tunis – Benghasi | 2.050 km | 1h21 sáng ngày 19/2/1929, phi hành đoàn rời Istres để tới Tunis lúc 7h37. Chặng bay này dài 850 km và mất hơn 6h bay, trung bình khoảng 160km mỗi giờ. Sau đó nghỉ ngơi khoảng 3 giờ và tiếp tục khởi hành lúc 10h30 sáng từ Tunis. Đích đến tiếp theo là Benghasi, Libya (có đi qua Tripoli) với quãng đường 1.400 km. Họ tới Benghasi vào 22h35 tối 19/2. |
20/2/1929 | Benghasi – Le Caire | 1.100 km | Chặng tiếp theo từ Benghasi tới Cairo, Ai Cập dài 1.100 km. Khởi hành từ Benghasi lúc 0h50 ngày 20/2/1929, phi hành đoàn đáp xuống Ai Cập vào lúc 8h45 sáng cùng ngày. Dù tới Ai Cập vào rất sớm nhưng đối mặt với thời tiết xấu tại sân bay Heliopolis, việc khởi hành ngay lập tức trở nên bất khả thi, họ phải dừng chân tại đây rồi rời đi vào sáng hôm sau. |
21/2/1929 | Le Caire – Bassorah | 1.860 km | 4h53 sáng 21/2/1929, phi hành đoàn cất cánh bay qua 1.800 km trên vùng trời Ả Rập để tới Bassorah, Iraq. Thời tiết khá tốt và chỉ gặp một cơn bão nhỏ trên Biển Chết. Sau 9h bay, họ đáp xuống Bassorah vào lúc 14h55 chiều. Tới 16h40 cùng ngày, họ tiếp nhiên liệu để tiếp tục cất cánh tới Karachi, Pakistan. |
22/2/1929 | Bassorah – Karachi | 2.000 km | Phi hành đoàn bay xuyên đêm để tới Karachi vào 11h10 sáng hôm sau (22/2/1929). Sau 2 giờ nghỉ ngơi, họ rời Bassorah lúc 13h10 và dự kiến tới Allahabad, Ấn Độ vào buổi tối ngày 22/2. |
23/4/1929 | Karachi – Allahabad | 1.550 km | |
24/2/1929 | Allahabad – Calcutta | 2.340 km | Lúc 3h sáng ngày 24/2/1929, phi hành đoàn khởi hành đi Calcutta, Ấn Độ. |
25/2/1929 | Calcutta – Akyab – Rangoon | 1.100 km | 7h sáng ngày 25/2/1929, Paillard rời Calcutta để tới Akyab, Miến Điện lúc 12h45 chiều. Chặng Akyab – Rangoon từ lúc 14h chiều thật vất vả do sức nóng và địa hình. Cuối cùng, họ cũng tới được Rangoon lúc 17h05 chiều. |
26/2/1929 | Rangoon – Bangkok – Saigon | 196 km | Sau một đêm nghỉ ngơi tại Rangoon, ngày 26/2/1929, họ lại lên đường lúc 8h25 sáng và dự kiến tới Bangkok vào buổi trưa. Nhưng sau khi bay được 196 km, động cơ bốc cháy. Dù đã mở hệ thống chữa cháy tự động và dùng hóa chất chữa cháy phun lên động cơ nhưng cũng không sao dập tắt được lửa. Paillard buộc phải cho máy bay hạ cánh khẩn cấp xuống một đầm lầy gần Moulmein, Myanma. Paillard và Le Brix chỉ bị thương nhẹ còn Jousse thì bị gãy chân. Chuyến bay thư tín đầu tiên giữa Pháp và Đông Dương đã chấm dứt sau quãng đường 11.220 km. |
VẬN CHUYỂN THƯ TÍN
Chiếc máy bay mang theo 30 kg thư, tương đương khoảng 3.000 bức thư cộng với 100 bưu phẩm được đặt trong boongke. Chiếc máy bay cũng được đặt tên là France-Indochine giúp các bạn nhận diện bì thư của chuyến bay do Paillard & Le Brix thực hiện bởi có khá nhiều bì thư “Accident” trong năm 1929. Trên phong bì có con dấu màu đen, hình chữ nhật, bên trong có dòng chữ “Courrier Accidenté”.
Con dấu đóng lên các bì thư trên chuyến bay của Paillard & Le Brix sau khi rơi tại Rangoon ngày 26/2/1929
Sau khi rơi tại gần Rangoon, Le Brix đã mang số thư lên tàu hỏa tới PnomPenh rồi bay bằng đường hàng không tới Sài Gòn. Dấu đến mặt sau đóng tại bưu cục Saigon Central ngày 8/3/1929.